Bạn có tin tôm là loài có thể được sử dụng để đánh giá chất lượng nước thải, tại các nhà máy xử lý nước thải người ta dùng tôm để cảnh bảo mức độ độc hại của nguồn nước giúp con người thiết lập nên những hệ thống xử lý nước thải đạt tốt hơn … Theo nguồn tài liệu dịch thuật tiếng Nga, và một số tin tức gần đây chúng ta có có được thông tin khá mới mẻ. Theo định nghĩa của ngành môi trường thì “Nuôi tôm để bảo vệ môi trường sinh thái”. Câu chuyện như thế nào, hãy xem thêm chi tiết bài viết được Công ty Môi trường PERSO đăng tải bên dưới.
NUÔI TÔM ĐỂ GIÁM SÁT HỆ THỐNG XỬ LÝ NƯỚC THẢI
Hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt, công nghiệp… Ở Nga có thêm nhân sự đắc lực để đánh giá và thông báo mức độ ô nhiễm của nguồn nước trước đây đó là loài Tôm Astacus leptodactylus còn hiện tại người ta dùng tôm thẻ chân đỏ. Thay cho các con tôm Astacus leptodactylus sống và phát triển trong nước lạnh của sông Neva, từ nay giám sát chất lượng nước thải là loài tôm Thẻ chân đỏ trong nước ấm ở Úc. Song song với công việc bảo trì hệ thống xử lý nước thải thì người ta tiến hành thay đổi loại tôm tùy từng mùa.
Ở phía Tây Nam St Petersburg bố trí các nhà máy khổng lồ xử lý nước thảy chạy xuống vịnh Phần Lan của biển Baltic, tập trung những hệ thống xử lý nước thải công nghiệp lớn. Các nhà máy xử lý nước thải phía Tây Nam St Petersburg được công nhận là cơ sở sinh thái tốt nhất ở châu Âu. Các nhà máy sử dụng các công nghệ tiên tiến nhất để xử lý nước thải. Giám sát chất lượng nước không chỉ là các thiết bị công nghệ cao mà còn những “nhân viên” khác thường – những con tôm. Con vật này rất nhạy cảm với ô nhiễm môi trường sống. Nếu trong nước thải chứa những chất độc hại, thì chúng phát tín hiệu “báo động” sớm hơn bất kỳ thiết bị. Con tôm có thể phát hiện các độc tố với nồng độ tối thiểu nhất.
Nếu trong nước xuất hiện chất độc thì con tôm bị rối loạn, nhịp tim có xu hướng tăng cao.Theo dõi nhịp tim của chúng là các cảm biến đặc biệt gắn vào vỏ, các chỉ số hiển thị liên tục trên màn hình. Nếu nhịp tim của tất cả các con tôm đều gia tăng đột ngột thì thiết bị sẽ phát tín hiệu “báo động”.
Để đánh giá chất lượng nước, tại các nhà máy xử lý nước thải thưởng sử dụng hai loài tôm. Đó là loài tôm địa phương của sông Neva – Astacus leptodactylus, và loài tôm thẻ chân đỏ Úc. Các con tôm từ sông Neva giám sát chất lượng nước vào mùa đông, còn các con tôm từ Úc – vào mùa hè.
Vấn đề là ở chỗ loài tôm nước ngọt sống trong sông Neva thích nước mát – 22-23 độ C. Còn các con tôm từ Úc thì thích nước ấm hơn. Nếu con vật hiện diện trong môi trường lạ thường, ví dụ nhiệt độ nước quá ấm hoặc ngược lại quá lạnh, thì chúng có cảm giác khó chịu. Điều này có thể dẫn đến việc thiết bị phát tín hiệu sai lầm.
Nhiệt độ nước tại các nhà máy xử lý nước thải thay đổi theo mùa: từ 16 độ đến 31 độ. Vì vậy, “đơn vị làm việc gồm các con tôm” thay đổi mỗi năm hai lần.
Những con tôm “làm việc” ở St Petersburg từ năm 2005. Mỗi ngày có sáu động vật giám sát chất lượng nước. Trước khi vào thành phần “đơn vị là việc, các chuyên gia lựa chọn những con tôm rất cẩn thận. Ngoài hai loài tôm, tại các nhà máy xử lý nước thải, các hệ thống xử lý nước thải ở St Petersburg cũng sử dụng một số loài cá và ốc sên châu Phi – Achatina. Ốc sên theo dõi chất lượng không khí gần lò đốt chất thải rắn.
Như vậy có thể nói tôm khá là có ích trong việc giám sát và báo hiệu, phát hiện những vấn đề trong nước, giúp cho các hệ thống xử lý nước thải được an toàn hơn,.